Lễ hội đền Choọng và những vấn đề đặt ra

1. Mở đầu







Năm 1974, tác giả bài viết này về công tác dạy học ở mường Choọng(1) xã Châu Lý, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, nơi có đền Choọng nổi tiếng. Chúng tôi đã tìm gặp những người già bản, nghe họ kể về những chuyện xung quanh đền này. Đó là những truyền thuyết, cổ tích về đền Choọng. Chúng tôi cũng đã tổ chức đi điền dã khám phá di tích của đền. Cho đến thời gian cách đây khoảng 15 năm, khi mà không khí đổi mới cho phép phục hồi các lễ hội truyền thống của các dân tộc, chúng tôi đã viết một số bài báo ngắn về đền Choọng. Tiếp theo là các bài của các tác giả Thái Tâm, Cao Duy Thái, v.v… 

Người viết về đền Choọng và chính thức đưa vào sách là PGS. Ninh Viết Giao. Tác giả này trong cuốn Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, trang 692 đã viết: “Đền Bản Choọng: ở xã Châu Lý, thờ Phà Hườn (nhà trời) và các thần ở đền Chín Gian tại mường Tôn (Quế Phong). Có đền Choọng là vì vào một thời gian người Thái ở mường Quáng, mường Tôn, mường Puộc (thuộc Quế Phong hiện tại) bị người Khơ Mú đuổi đánh. Chống không được, họ phải chạy xuống mường Choọng tức vùng mường thuộc xã Khủn Tinh sau này. Tưởng là một hai ngày, nào ngờ mấy năm trời, họ phải lập đền để cúng thần ở mường Tôn. Khi yên hàn, họ trở về Quế Phong, giao đền ấy lại cho bà con Thái ở mường Choọng cúng tế. Đền này còn gọi là đền Tến Choọng. Có người nói đền Bản Choọng thờ một người con gái vốn ở mường Tôn (Quế Phong), con tạo mường Quỳ, đang cai quản mường Quỳ và trông coi đền Chín Gian ở mường Noọc. Khoảng vào đời thứ 12 của dòng họ Lo Kăm kể từ ngày vào Nghệ An, người Thái đã phát triển xuống vùng Quỳ Hợp bây giờ, mở rộng thêm ba mường mới vừa là mường Choọng, mường Háng Sủng và mường Chai. Họ lập một cái đền gọi là đền Ba Gian để ba mường đến cúng thần (Phà Hườn), sau thờ thêm cả người con gái ấy”. Sau này tác giả lại một lần nữa đề cập đến địa danh “Đền Choọng” trong sách Địa chí huyện Quỳ Hợp, ở trang 274: “Mường Choọng (Châu Lý) ở bản Choọng có đền Choọng thờ Trời và Náng Lẻ. Đền Choọng được coi như đền Chín Gian trong thời gian vùng phủ Quỳ Châu cũ “có loạn””. Cách đây mấy năm, tác giả Thái Tâm viết: Đền Choọng - những khảo cứu đầu tiên, cho rằng: “Đền Choọng được dựng lên, trước hết là để thờ Căm Lạn, là người thuộc dòng họ quý tộc Lo Căm ở Mường Tôn (Quế Phong ngày nay)... và sau đó (họ Lo Căm) đã cử em gái của mình là “Nang phốm hóm” xuống ở bản Choọng, để trực tiếp cai quản dân mường Choọng, đồng thời trông coi việc thờ cúng đền thờ Căm Lạn. Sau khi “Nang phốm hóm” chết, dân mường Choọng đã làm một ngôi đền mới, gọi là đền Choọng, để thờ nàng. Ngôi đền ấy còn mãi đến ngày nay!”. Tháng 11, 12/2012, tác giả Cao Duy Thái cho đăng loạt bài trên báo: Nghệ An - Dân tộc - Miền núi, và trên trang website: muongchoong.blogspot.com, về Lịch sử đền Choọng, cho rằng:“Thương nhớ Nàng (“Nang phốm hóm” chết - Quán Vi Miên), người dân mường Choọng đã lập đền thờ Nàng ngay trên đồi đất mà trong quá trình tìm kiếm Nàng đã đắp nên. Ngôi đền ấy có tên đền Choọng”.

Như vậy, có thể thấy là các ý kiến chưa thống nhất với nhau. PGS. Ninh Viết Giao cho là thờ Trời (Phà Hườn), các Thần ở đền Chín Gian (ở Quế Phong của họ Lo Căm/ Lo Kăm), và người con gái mường Tôn (người nhà họ Lo Căm) và Nang Lẻ. Tác giả Thái Tâm cho là có 2 đền thờ, 1 thờ Căm Lạn (chủ mường vùng Khủn Tinh) và 1 thờ Nang phốm hóm (Nàng tóc thơm, em gái chủ mường). Tác giả Cao Duy Thái cho là đền Choọng thờ Nàng tóc thơm. Tóm lại, có thể chia đối tượng thờ thành 3 chủ thể: Trời (Phà Hườn), các Thần (tổ tiên họ Lo Căm, trong đó có Căm Lạn, em gái Căm Lạn), Nàng Le (Nang Lẻ), Nàng tóc thơm (Nang phốm hóm) - người có công “nuôi quân” Lê Lợi… Vậy, sự thật đền Choọng thờ ai?

2. Đền Choọng thờ ai?
Tác giả PGS. Ninh Viết Giao đưa ra ý kiến trên đây rất tiếc là không có diễn giải gì thêm. Tác giả Cao Duy Thái thì dựa vào truyện kể, truyền thuyết, di tích… Hồi công tác ở vùng này, chúng tôi đã hỏi chuyện người già, trí nhớ của họ cùng lắm thì chỉ nhớ từ thế kỷ XIX trở lại đây mà thôi. Còn thì toàn là “nghe nói”, “người xưa kể”, v.v… Xét về mặt khoa học thì không thể “tin” 100% được. Bằng chứng là gần đây phát hiện ngôi mộ người Kinh ở Hẻo Kéo, mà người già nhất cũng không biết được sự việc này. Truyện kể, truyền thuyết có nói đến “Nàng tóc thơm”, nhưng “Nàng tóc thơm” đâu phải là tên riêng, không có địa chỉ cụ thể, nó chỉ là một “mỹ danh” gặp nhiều trong truyện cổ Thái, thường gán cho người con gái đẹp, nết na. Cái mỹ danh này nói về ai đây? Tác giả Thái Tâm có cái mới là dựa vào văn bản chữ Thái cổ: một là bài cúng Pủ Mường (tổ mường) sưu tầm ở bản Chiềng Yên (Khủn Tinh), có những câu:“Xó mơi pủ mương huống lông nằng hươn tậu/ Xó mơi ống chá lông nằng hàu hươn huống noọc bàn/ Chầu Căm Lạn lông nằng tì tư mương”. Chúng tôi dịch lại: “Xin mời tổ mường lớn xuống ngồi nhà gỗ Tậu/ Xin mời ông Chá (chức dịch) xuống ngồi vào nhà to ngoài bản/ Chủ Căm Lạn xuống ngồi quản mường”. Hai là sử thi Lai lông mương(Xuống mường), có đoạn: “Ải cả lông nằng Pu quai/ Noọng chai lông nằng mương choọng”. Chúng tôi dịch lại: “Anh cả xuống ngồi Pu Quai (núi ở Quế Phong)/ Em trai xuống ngồi mường Choọng”. Em trai ở đây là Căm Lạn. Tài liệu thứ 3 là sử thi Lai mổng mương (Trông mường), có những câu - những câu này chúng tôi đã công bố trên bài viết trước đó: “Mổng quành hàu mương choọng mưa pỏng phá côn/ Mổng hến ỏn chầu nằng phá cáng/ Nang đí cái phá côn hòn hòn/ Ỏn chằng phài đên choọng chẳng pằn tối xáo” (Ngoảnh trông vào Mường Choọng về thấu Phá Côn (núi)/ Trông thấy Ỏn Chầu (nàng chủ) ngồi Phá Cáng (núi giữa)/ Nàng đẹp qua Phá Côn rực rỡ/ Nàng mới qua đền Choọng, quấn quýt đôi bạn gái)(2). Trở lại mấy câu trích của tác giả Thái Tâm ở trên. Theo chúng tôi, “Nàng chủ”, “Nàng đẹp” ở đây là em gái Căm Lạn, người thế anh (Căm Lạn mất) đã nói ở trên. Còn bạn gái của nàng thì chưa xác định được là ai. Đến khi nàng chủ mất, người ta lại thờ nàng ở đền Choọng cùng với tổ tiên của họ Lo Căm. Nàng cũng có thể mang danh “nàng tóc thơm”. Một người nữa có thể mang danh “nàng tóc thơm” là Nàng Le - tác giả PGS. Ninh Viết Giao nêu ở trên. Nàng Le là người bản Le, Khủn Tinh, thuộc người họ Vi, có công giúp nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi quân Minh trên núi Pu Chẻ, nay vùng này còn thờ. Hồi nhỏ (những năm 50 của thế kỷ XX) chúng tôi đã từng theo cha anh đi tế lễ ở đền thờ bà ở chân núi Pu Chẻ, phía trên bản Le. Tác giả Thái Tâm còn khảo cứu và cho biết hậu duệ của bà nay là dòng họ Vi (Quán Vi) ở bản Chiêng Đôn (Khủn Tinh). Người mường Choọng từ lâu có tục kiêng húy tên bà nên trong thờ cúng và trong đời sống gọi “cái Lé” (cái đĩa) thành “cái Tật”, vì từ “lé” phát âm gần giống từ “le” tên bà. Người thứ 3 có thể mang danh “Nàng tóc thơm” là người phụ nữ có công “nuôi quân” Lê Lợi mà tác giả Cao Duy Thái đã đề cập. Trong ba “Nàng” trên thì hai “Nàng” đầu là có cơ sở thực tế hơn cả. Trở lại với câu hỏi “Đền Choọng thờ ai?”, chúng tôi xin bàn về ý kiến tác giả PGS. Ninh Viết Giao về thờ nhân vật “Phà hườn” (nhà trời). “Phà hườn”, ghi phiên âm chính xác là “Phạ huổn”, cũng gọi là “Then/ Bôn”, tức là “ông trời”. Thờ Phạ huổn/ Then/ Bôn, hoặc thờ Trời - thường là tín ngưỡng chung của nhiều dân tộc trên thế giới. Trong một bài báo trước đây chúng tôi đã trích sử thi Lai mổng mương (Trông mường) dẫn chứng về điều đó. Sử thi có đoạn: Moi hến đên xơ tằng cáng chiếng đú lạc/ Đên tản tằng phẳng nặm tản mẳn xở quai/ Xíp mự tản đày hà quai đỏn xở Thén/ Xao nghên hà quai đắm xở Pủ/ Khấu bổ hờ mi xề quai ộm xở Pủ Xân Huống” (Trông thấy đền thờ dựng giữa mường uy nghi/ Đền người ta dựng bờ sông [suối] người ta thường tế trâu/ 10 ngày người ta được mổ trâu trắng thờ Then [phạ huổn]/ 20 ngày mổ trâu đen tế tổ/ Người ta bổ cho có thuế trâu to tế tổ Xân Huống [tổ thiêng, người khai mường lập bản]). Như vậy, ý kiến của tác giả PGS. Ninh Viết Giao là xác đáng. Một câu hỏi nữa cần được trao đổi là “Đền Choọng được dựng từ khi nào?”.

3. Đền Choọng được dựng từ khi nào?
Như trên đã chứng minh, đền Choọng thờ Then (Bôn), thờ tổ tiên dòng họ Lo Căm (dòng họ chủ mường), thờ người có công với bản mường (người khai mường lập bản, nàng Le, “nàng tóc thơm nuôi quân” ), trong đó thờ Then là tín ngưỡng linh thiêng nhất, lâu đời nhất. Người Thái đã dựng nhà thì lập bàn thờ (chong hỏng) để thờ cúng cha mẹ, ông bà; lập bản là làm nhà thờ (tến bàn) để thờ cúng thần bản (người khai phá ra bản); lập mường là làm nhà thờ mường (tến mương) để thờ cúng thần mường (then, chủ mường, người có công với bản mường)… Cho nên, “tuổi” của đền Choọng, theo chúng tôi, muộn nhất là “trước thế kỷ XV”. Vì mường Choọng thuộc đất mường Tôn xưa (sử Đại Việt gọi là Tồn Bồn Man/ Bồn Man), và Bồn Man là 1 tiểu quốc của vương quốc Lạn Xạng, mà Bồn Man thì có niên đại 1369 - 1478. Từ đời Lê vùng đất này (phủ Quỳ Châu cũ) thuộc hẳn về Đại Việt. Cả ba tác giả PGS. Ninh Viết Giao, Thái Tâm và Cao Duy Thái đều dẫn ra những “tư liệu dân gian” nói về “dấu vết” của Khởi nghĩa Lam Sơn (thế kỷ XV) đối với đền Choọng (nàng Le, nàng tóc thơm nuôi quân, v.v…). Điều đó củng cố thêm về “tuổi” của đền mà chúng tôi đã nêu. Như vậy, không đợi đến khi “người Thái bị người Khơ Mú đuổi đánh” - sự kiện mà người Thái gọi là “loạn giặc xá”, do người Khơ Mú ở Xiềng Đông, Xiềng Tông bên Lào bị các dân tộc mạnh hơn săn đuổi, dồn ép lên dãy Trường Sơn, phải tràn sang miền Tây Nghệ An, để tìm đất sống, nổ ra năm 1874 (Giáp Tuất), đến năm 1883 (Quý Mùi) thì bị đánh dẹp, mới có đền Choọng.

4. Kết luận
Như vậy, từ khi lập đền Choọng, trước thế kỷ XV, chủ mường Căm Lạn thờ Then, tổ tiên họ Lo Căm của mình. Đến khi Căm Lạn mất, em gái ông thờ Then, tổ tiên (trong đó có Căm Lạn). Khi em gái Căm Lạn mất, người dân mường Choọng thờ Then, tổ tiên dòng họ Lo Căm (trong đó có cả em gái Căm Lạn). Đền Choọng sau khởi nghĩa Lam Sơn thì thờ thêm Nàng Le, người có công đánh giặc ngoại xâm, và “Nàng tóc thơm - nuôi quân”… Gần đây, tác giả Cao Duy Thái sưu tầm được đôi câu đối ở đền Choọng (do ông Lang Văn Tuyền, 1912 - 2007 lưu giữ), và tạm dịch là: “Chính khí cao tiên kim cổ địa/ Thanh danh hà hạn Nam Bắc thiên”. Ông Nguyễn Thế Đạt (ở thành phố Vinh) “thử giải nghĩa” như sau: “Câu đối ở đền Choọng ghi bằng chữ Hán có chữ “hà” và chữ “bắc” ghi có lẽ không chính xác. Thử sửa lại là: “正氣高標今古地聲名何限北南天”. “正氣” = Chính khí: khí tiết chính trực. Văn Thiên Tường đời nhà Tống bên Trung Quốc không chịu khuất phục Nguyên Mông có bài “Chính khí ca” nổi tiếng. Ngược với chính khí là tà khí. “高標” = Cao tiêu: cái mốc rất cao; cái ngọn rất cao, cũng có thể hiểu là mức độ rất cao. “今古地” = Kim cổ địa: từ xưa đến nay trên đất này. “聲名” Thanh danh: tiếng tăm, tiếng thơm. “何限” = Hà hạn: không có giới hạn. “北南天” = Bắc Nam thiên: trời Nam trời Bắc.

Đại ý: “Đất này xưa nay chính khí mãi nêu cao/ Trời kia Nam Bắc thanh danh đâu giới hạn”. Hay: “Đất mình đây/ Chính khí giương cao muôn thuở/ Thanh danh rạng rỡ muôn phương”. Mảnh đất Mường Choọng (với đền Choọng) xứng đáng với sự tôn vinh đó.

Khi cúng tế thì theo cách thức/ nghi thức như ở đền Chín Gian (Quế Phong): Mâm thờ Then ở trên cùng, tiếp đến là tổ tiên dòng họ Lo Căm, cuối cùng mới đến các vị thần có công với bản mường… Để biết chính xác thời gian thờ thêm các “vị” này thì cần phải có công trình khảo cứu khác. Quá trình làm đền Choọng tất nhiên thuở ban đầu thì cũng nhỏ, thô sơ, bằng tranh tre nứa lá thôi. Hỏng thì làm lại. Địa điểm có thể xê dịch đôi chút. Nhưng vẫn nằm trong “quần thể” cũ của đền. Di tích còn lại mấy hòn đá tảng kê chân cột đó là của gần đây. Có thể là thời “người anh em” từ Quế Phong lánh giặc Xá xuống đây, cùng nhau làm lại đền cho khang trang một chút để cùng thờ Then, tổ tiên…

Ngày 8/1/2014, Ban chỉ đạo phục dựng và tôn tạo đền Choọng, xã Châu Lý, huyện Quỳ Hợp chủ trì phối hợp với Hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Ủy ban nhân dân xã Châu Lý tổ chức Lễ khởi công phục dựng và tôn tạo đền Choọng, xã Châu Lý. Công trình được quy hoạch xây dựng trên tổng diện tích 91.956 m2, gồm các hạng mục chủ yếu là: Thượng điện, hạ điện, tả vu, hữu vu, tam quan, cổng tứ trụ, sân, đường lên hạ điện, thượng điện; Cầu, đường, sân bãi và các công trình phụ trợ khác. Công trình do Công ty Cổ phần bảo tồn di sản văn hóa Việt thiết kế kỹ thuật. Tổng mức đầu tư dự kiến 50 tỷ đồng. Riêng công trình thượng điện diện tích xây dựng 200 m2; dự kiến kinh phí 7 tỷ đồng; nhà gỗ nhóm 2, kiểu nhà hình chữ nhật, cột kê đá tảng. Giai đoạn 1 của công trình phục dựng tôn tạo đền Choọng gồm: Thông báo quy hoạch đất và ra quyết định thu hồi đất; Đền bù giải phóng mặt bằng; San ủi mặt bằng xây dựng; Thi công nhà thượng điện; Nội thất trong nhà thượng điện.
Đền Choọng được tôn tạo, phục dựng sẽ trở thành một quần thể kiến trúc khang trang, xứng tầm là một công trình văn hóa tâm linh, lịch sử của huyện(3).

Chú thích
(1). Mường Choọng: Tên đầy đủ là “Mường Choọng Hạp”. Từ “Choọng Hạp” được người Kinh phiên âm là “Trọng Hợp”. Thời nhà Nguyễn gọi “Mường Choọng Hạp” là “Sách Trọng Hợp”. “Choọng Hạp” là danh từ, nguyên nghĩa chỉ cái “quang gánh” [gánh trống đồng, gánh nồi vạc, gánh chum rượu trong đánh trận hay trong tế lễ (?)]. Sau gọi rút gọn (theo quy luật tiết kiệm trong ngôn ngữ) từ “Mường Choọng Hạp” thành “Mường Choọng”, “Đền Choọng Hạp” thành “Đền Choọng”. Không chỉ dựa vào từ rút gọn: “Choọng” (tính từ), trong “Mường Choọng”, “Đền Choọng”, mà giải nghĩa. Từ “Choọng” khi đứng độc lập thì vô nghĩa. Chỉ khi kết hợp với 1 từ/ tiếng khác thì nó mới có nghĩa. Ví dụ: “Choọng Côn” là “mến người”, “quý người”, “tôn trọng người”, v.v.; “Choọng Hến” là “thường thấy”; “Choọng Đày” là “thường được”, v.v.
(2). Sử thi Lai lông mương/ Xuống mường viết bằng chữ Thái cổ, dài 641 câu/ dòng, kể lại từ thời kỳ hồng hoang, đến khi người Thái xuống/ đến khai mường lập bản ở vùng miền Tây Nghệ An. Sử thi Lai mổng mương/ Trông mường viết bằng chữ Thái cổ, dài 440 câu/ dòng, nói về/ miêu tả cảnh bản mường người Thái toàn vùng Mường Bôn [sử Đại Việt gọi là Tồn Bồn Man/ Bồn Man], trong đó có miền Tây Nghệ An)
(3). Quỳ Hợp: Khởi công phục dựng và tôn tạo đền Choọng, Chuyên san Khoa học Xã hội & Nhân văn Nghệ An, số 1+2/2014, tr. 124.
Tài liệu tham khảo
1. Ninh Viết Giao, Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, Nxb. Nghệ An, Vinh 2000, tr. 692.
2. Ninh Viết Giao (chủ biên), Địa chí huyện Quỳ Hợp, Nxb. Nghệ An, Vinh 2003, tr. 274.
3. Quán Vi Miên, Đền Chín Gian qua tư liệu chữ Thái cổ, đăng trên Chuyên san Khoa học Xã hội & Nhân văn Nghệ An, số 5, tháng 11/2011, tr. 70 - 73.
4. Thái Tâm, Xơ pủ mương/ Cúng tổ mường, (sưu tầm ở bản Chiềng Yên, Khủn Tinh; bản vi tính).
5. Sử thi Lai lông mương/ Xuống mường, và Sử thi Lai mổng mương/ Trông mường (Bản chữ Thái - Lai Tay, do tác giả sưu tầm và dịch).
6. Cao Duy Thái, Lịch sử đền Choọng in trên báo Nghệ An - Dân tộc Miền núi, tháng 11/12/2012, và trang Website muongchoong.blogspot.com.
Quán Vi Miên

Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

1 nhận xét:

  1. The King Casino - CommunityKhabar
    The communitykhabar King Casino is bsjeon the only casino near https://septcasino.com/review/merit-casino/ the casino. All 출장안마 casino games are legal 오래된 토토 사이트 and the game variety is huge! The games are also available at any of the

    Trả lờiXóa